Phát biểu tại Hội nghị Hội đồng điều phối vùng Đồng bằng sông Cửu Long tổ chức chiều 1/7, tại Cà Mau, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Duy Đông cho biết, Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long được ban hành sớm nhất so các vùng trên cả nước; Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Kế hoạch thực hiện quy hoạch vùng tại Quyết định số 816/QĐ-TTg ngày 7/7/2023, đây là cơ sở để các bộ, ngành, địa phương triển khai các chương trình, dự án quan trọng của vùng trong thời kỳ quy hoạch.
“Quy hoạch vùng đã định hướng từng bước thay đổi tư duy về an ninh lương thực từ việc phát triển nông nghiệp dựa vào cây lúa là chính sang mô hình thủy sản - trái cây - lúa gạo nhằm tăng giá trị và nâng cao hiệu quả sản xuất”, Thứ trưởng Trần Duy Đông nhấn mạnh.
Thứ trưởng Trần Duy Đông cho biết, qua 2 năm thực hiện Quy hoạch vùng, các bộ, ngành đã tích cực chủ động phối hợp với các địa phương liên quan để thực hiện; lãnh đạo các địa phương đã kịp thời chỉ đạo, đề ra các giải pháp phù hợp với từng thời điểm để đón nhận thời cơ mới, vận hội mới nhằm phấn đấu đạt kết quả cao nhất về phát triển kinh tế - xã hội nói chung và phát triển các ngành, lĩnh vực nói riêng, từng bước cụ thể hóa tư duy mới, tầm nhìn mới tại Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đất nước giai đoạn 2021-2030 và các định hướng, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước; từ đó, mở ra các cơ hội phát triển mới và định hình các giá trị mới toàn vùng.
Với vai trò là Thường trực Hội đồng điều phối vùng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan trung ương, trên cơ sở đề xuất của các địa phương trong vùng rà soát, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề xuất các cơ chế, chính sách dựa trên nguyên tắc như sau: Cơ chế, chính sách phải phù hợp với cấp có thẩm quyền, các chính sách thí điểm rõ đã phát huy trong thực tiễn, có hiệu lực, hiệu quả, lồng ghép một số địa phương có ý kiến chỉ đạo của Đảng, Chính phủ. Không thí điểm các chính sách đã có kế hoạch ban hành hoặc sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật trong các năm 2024 – 2025.
Sau khi rà soát, ngoài các chính sách có thể áp dụng chung các vùng khác, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề xuất một số chính sách áp dụng riêng cho vùng Đồng bằng sông Cửu Long, cụ thể: cơ chế, chính sách về cho lĩnh vực nước sạch, nước sinh hoạt cho người dân; hỗ trợ những khu vực khó khăn, khan hiếm nguồn nước sạch; cơ chế hỗ trợ nghiên cứu, đầu tư các hệ thống hồ chứa với quy mô lớn (khoảng 30 ha/hồ) trữ nguồn nước ngọt dự phòng.
Bên cạnh đó, Chính phủ cần ban hành chính sách phát triển nông lâm ngư nghiệp, trong đó ưu đãi đặc biệt cho người trồng lúa nhằm ổn định vùng sản xuất lương thực lớn của cả nước; chính sách về tạm trữ lúa gạo hỗ trợ người nông dân liên kết các chuỗi sản xuất, nâng cao chất lượng và giá trị gia tăng của sản phẩm nông nghiệp nhằm phát triển kinh tế nông nghiệp thuận thiên, bền vững.
Các địa phương trong vùng được phép được chuyển đổi linh hoạt phần diện tích quy hoạch đất trồng lúa kém hiệu quả sang sang đất trồng hoa màu, trái cây... với định mức ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long cao hơn ít nhất 30% so với trung bình của cả nước.
Cùng với đó, cần có cơ chế, chính sách đặc thù về thu hút đầu tư phù để khắc phục tình trạng sạt lở bờ sông, bờ biển, hạn chế tác động của biến đổi khí hậu, bảo vệ và phát triển rừng, đảm bảo an sinh cho người dân ở khu vực ven biển.
Đồng thời, nâng mức đặc thù về suất đầu tư cho các công trình giao thông xây dựng mới hoặc bảo trì đối với khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Chính sách đào tạo thu hút nhân lực chất lượng cao đến làm việc tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng nhấn mạnh, các nội dung chính sách được rà soát; trong đó, cần tập trung làm rõ sự cần thiết đề xuất ban hành chính sách mới hoặc tính hiệu quả của các chính sách hiện hành. Trên cơ sở đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ tổng hợp, nghiên cứu đề xuất, kiến nghị các cấp có thẩm quyền sửa đổi, tích hợp, lồng ghép các cơ chế, chính sách và tập trung bố trí nguồn lực thực hiện để đảm bảo tính nhất quán và hiệu lực, hiệu quả.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, mặc dù, thời gian triển khai các Nghị quyết của Bộ Chính trị và Chương trình hành động của Chính phủ không dài; Hội đồng điều phối Vùng Đồng bằng sông Cửu Long được thành lập mới thay thế Hội đồng vùng được thành lập năm 2021, nhưng được sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, địa phương trong vùng đã quán triệt nội dung, ban hành các kế hoạch hành động, phối hợp chặt chẽ, tổ chức triển khai quyết liệt các nhiệm vụ, giải pháp đề ra.
Đồng bằng sông Cửu Long đã khẳng định vị thế là trung tâm sản xuất, xuất khẩu lúa gạo, thủy hải sản và cây ăn quả hàng đầu của cả nước, góp phần vào bảo đảm an ninh lương thực. Ảnh: Thu Hiền - TTXVN
Về cơ bản, kinh tế - xã hội từng bước phát triển ổn định theo định hướng bền vững hơn; Đồng bằng sông Cửu Long đã khẳng định vị thế là trung tâm sản xuất, xuất khẩu lúa gạo, thủy hải sản và cây ăn quả hàng đầu của cả nước, góp phần vào bảo đảm an ninh lương thực; Công tác điều phối, liên kết vùng dần nhịp nhàng, phát huy hiệu quả…
Nhờ đó, tốc độ tăng trưởng GRDP năm 2023 đạt 6,37%, đứng thứ 2/6 vùng trên kinh tế; cao gấp gần 1,3 lần so bình quân chung cả nước; GRDP bình quân đầu người năm 2023 đạt 72,32 triệu đồng/người, tăng 10,1% so với năm 2022 (65,69 triệu đồng/người);
Cơ cấu kinh tế vùng tiếp tục chuyển dịch tích cực, tỷ trọng các ngành nông, lâm nghiệp giảm dần; công nghiệp-xây dựng có xu hướng tăng; khu vực dịch vụ tăng nhẹ. Cơ cấu của 3 khu vực năm 2023 lần lượt là 30,05%; 27,62%; 37,07% và thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm là 5,26%.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, còn một số hạn chế, khó khăn trong điều phối, phát triển Vùng, đó là: liên kết hợp tác còn hạn chế, chưa đi vào chiều sâu, chưa hình thành được các cụm sản xuất, dịch vụ liên kết ngành; hạ tầng giao thông kết nối liên vùng, hạ tầng kinh tế kỹ thuật cấp Vùng chưa phát triển đồng bộ; khả năng thu hút nguồn lực đầu tư thấp, chất lượng nguồn nhân lực cải thiện chậm, chưa đáp ứng yêu cầu.
Nguyên nhân của những khó khăn trên là các nhiệm vụ, giải pháp đề ra có tính dài hạn, thực hiện đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; đồng thời, nguồn lực thực hiện chính sách dựa nhiều vào ngân sách trung ương trong khi nguồn vốn này còn khó khăn. Quá trình đầu tư cơ sở hạ tầng và phát huy hiệu quả cần có thời gian và “độ trễ” nhất định.